Wednesday, September 5, 2007

Các nguyên nhân của rối loạn cương dương

Các nguyên nhân của rối loạn cương dương

Nếu rối loạn cương dương (RLCD) chỉ xảy ra một lần hoặc hiếm khi xảy ra, đặc biệt trong các tình huống bất thường như đau đớn cực độ, trầm cảm hoặc dưới sự tác động nặng nề của rượu, xin đừng hoảng sợ. Giáo sư G. Adaikan (Singapore) đã khuyên như vậy đối với những người đang lo lắng về vấn đề này.

Giáo sư G.Adaikan đưa ra lời khuyên này tại Hội nghị Y khoa vùng châu Á, chủ đề Tối ưu hóa cách chữa trị bệnh rối loạn cương dương, đang diễn ra tại TPHCM.

Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng, một cuộc chẩn đoán bệnh RLCD chỉ thích hợp nếu sự khó khăn đó xảy ra nhiều lần và đều đặn trong một khoảng thời gian. Hiện nay khoảng 30 triệu đàn ông tại Mỹ bị RLCD, có trên 50% đàn ông tuổi từ 40 đến 70 gần như bị RLCD và có thêm khoảng 900.000 trường hợp mới mỗi năm.

Theo ông Adaikan, nguyên nhân gây ra RLCD bao gồm:

- Nguyên nhân thể chất

+ Tim mạch: Bệnh cứng động mạch, bệnh tim hoặc tai biến não, huyết áp cao và cholesterol cao, đều tác động đến máu chảy vào và chảy ra khỏi dương vật. Bệnh tim mạch là nguyên nhân thể chất thông thường nhất của RLCD.

+ Tiểu đường: Tình trạng mạn tính này có thể gây tổn hại cho thần kinh và tổn hại cho các mạch máu dẫn đến dương vật. 2/3 đàn ông bị bệnh tiểu đường đều bị RLCD.

+ Thần kinh: Các tình trạng đau thần kinh gồm có tổn thương cột tủy sống, xơ cứng trùng hợp, thoái hóa thần kinh do bệnh tiểu đường hoặc nghiện rượu.

+ Mức độ thấp của hoóc môn nam testosterone.

+ Phẫu thuật: Phẫu thuật ung thư ruột kết, ruột thẳng hoặc tuyến tiền liệt, và ngay cả xạ trị tại vùng xương chậu có thể gây tổn hại cho các dây thần kinh và mạch máu, RLCD.

+ Chấn thương: tổn thương cột tủy sống, gãy xương chậu.

+ Tác dụng phụ của thuốc: Cả một danh mục dài của các loại thuốc kê toa và thuốc bán không cần toa có tác dụng phụ là tiềm năng của RLCD. Nếu bạn theo dõi các vấn đề về chức năng cương cứng sau khi bắt đầu dùng thuốc mới, xin hãy hỏi bác sĩ của bạn về các tác dụng phụ có thể có của thuốc, các chọn lựa và giải pháp.

- Yếu tố về cách sống

+ Rượu: Uống nhiều rượu làm giảm khả năng của bạn về cương cứng. Uống rượu lâu ngày, quá độ gây tổn hại cho thần kinh và gan, và mất cân bằng hoóc môn.

+ Ít vận động

+ Hút thuốc lá: Đàn ông hút thuốc lá rủi ro bị RLCD nhiều hơn đàn ông không hút thuốc.

- Nguyên nhân tâm lý

Những nguyên nhân này có thể xảy ra riêng lẻ hoặc phối hợp với một hay nhiều nguyên nhân thể chất của RLCD.

+ Lo lắng về khả năng thực hiện tình dục: Khi một người đàn ông lo lắng về khả năng quan hệ tình dục của mình, chức năng cương cứng của họ có thể bị ảnh hưởng.

+ Trầm cảm

+ Yếu thần kinh

+ Vấn đề về quan hệ: căng thẳng với đối tác tình dục của bạn hoặc các vấn đề khác như là tài chính, gia đình… cũng tác động tiêu cực đến chức năng tình dục.

Giáo sư G. Adaikan cũng lưu ý tình dục là một chủ đề nhạy cảm. Bạn nên thoải mái nói về nó với bác sĩ của bạn cũng như với đối tác của bạn.

Những cặp vợ chồng thường tránh nói về các khó khăn tình dục vì họ cảm thấy bối rối, hổ thẹn, hoặc không kín đáo. Việc tránh né này có thể xảy ra vì các lý do khác, như sợ làm tổn thương cảm giác của đối tác mình, thiếu thoải mái khi nói về các khó khăn tình dục, và quan niệm sai lầm về rối loạn chức năng tình dục.

Nếu bạn gặp khó khăn về cương cứng, hãy kiểm tra với bác sĩ của bạn. Bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng của bạn và tư vấn cho bạn về các chọn lựa để chữa trị. Hầu hết các bác sĩ cho rằng, các cách chữa trị được tiến hành từ mức ít nhất đến nhiều nhất. Cắt giảm tác dụng phụ độc hại của bất cứ thứ thuốc nào cũng được xem xét trước tiên.

T.P. ghi


Lạm dụng thủ dâm gây hại cho sức khoẻ

Lạm dụng thủ dâm gây hại cho sức khoẻ

Sự quá đà này có thể gây những hậu quả thể chất, tâm lý và thần kinh. Về thể chất, hậu quả thường gặp là rối nhiễu thần kinh tim với biểu hiện mạch và nhịp tim nhanh; đôi khi còn khó thở và toát mồ hôi.

Ở tuổi vị thành niên (10-19 tuổi), do sự phát triển của các tuyến nội tiết, hoóc môn giới testosterone tăng nhiều tạo ra xung năng tình dục. Vì vậy, nhiều em đã có hành vi kích dục. Hành vi này có tác dụng giải tỏa, đem lại các cực khoái khi tự làm xuất tinh (với nam giới). Cảm giác thỏa mãn ấy đã tạm đóng lại mọi cơ chế kích thích tình dục, làm giảm đi xung năng tình dục sôi sục, đưa cơ thể trở lại trạng thái yên tĩnh, cân bằng. Trong trường hợp này, thủ dâm không bị coi là có hại, thậm chí còn cần thiết để có sự cân bằng. Nhưng sẽ là có hại khi nó được thực hành hàng ngày, hoặc nhiều lần trong ngày làm cho thanh thiếu niên không còn quan tâm đến những việc khác (vui chơi, thể thao, học tập...) hoặc rơi vào trạng thái tự dằn vặt.

Giới hạn bình thường của hành vi thủ dâm (tự kích dục) ở nam giới trẻ có thể là 1-2 lần mỗi tuần nhưng cần xem là bất thường khi có những biểu hiện sau:

- Có đủ cơ hội để có quan hệ tình dục bình thường mà vẫn thích thực hành thủ dâm.

- Thủ dâm quá sớm.

- Làm nhiều lần trong ngày.

- Cảm thấy mỏi mệt, sao nhãng nhiệm vụ học tập, cảm giác ân hận sau mỗi lần thực hành, suốt ngày nghĩ nhiều đến chuyện tình dục nam nữ.

Phần lớn hành vi tự kích dục bất thường gây hại cho sức khoẻ. Có người bị rối loạn tiêu hóa (tuy không thường xảy ra) dưới dạng ăn không tiêu, không thèm ăn, tiêu chảy hoặc táo bón, kèm theo các cơn đau dạ dày. Nhiều trường hợp thấy buồn nôn, hơi thở hôi và mệt mỏi hoặc có những biến đổi ở bộ máy tiết niệu - sinh dục như đái rắt, viêm tuyến tiền liệt, di tinh, nhất là sau khi đi đại tiện hay tiểu tiện. Trong số những biến đổi của hệ thần kinh, cần nói đến trước tiên là bệnh suy nhược thần kinh, tâm trạng bồn chồn và nhiều rối nhiễu khác.

Những biến đổi và rối loạn về tâm lý là hậu quả quan trọng nhất, bao gồm các dấu hiệu rụt rè, nhút nhát, mặc cảm phạm tội, sống tách biệt, lẩn tránh mọi người, có tính đố kỵ, chán ghét môi trường sống, trầm cảm, bệnh tưởng và sầu muộn có thể dẫn đến tự sát. Không thể phủ nhận rằng, thủ dâm có tính bệnh lý là tiền đề để phát triển nhiều loại hành vi tình dục sai lạc khác. Vì thế, cần loại trừ những nguyên nhân có khả năng gây ra hiện tượng lạm dụng tự kích dục: ảnh hưởng của bạn bè, tác động của phim ảnh, băng hình đồi trụy...

Mặc dù không có thuốc đặc hiệu để chữa thói quen thủ dâm quá nhiều nhưng có thể dùng thuốc an thần để hỗ trợ và tạo một lối sống tích cực, năng vận động, tập luyện thể thao...

BS Đào Xuân Dũng, Sức Khoẻ & Đời Sống



Tìm hiểu các bệnh lây qua đường tình dục

Tìm hiểu các bệnh lây qua đường tình dục

Bệnh lây qua đường tình dục là nhiễm khuẩn truyền từ người này sang người khác trong khi quan hệ tình dục. Hiện có tới hơn hai chục bệnh thuộc nhóm này, đều có thể điều trị và phòng ngừa một cách hữu hiệu. Vấn đề là phải phát hiện sớm để chữa trị kịp thời.

Bệnh giang mai

Do xoắn khuẩn gây nên. Bệnh tiến triển qua nhiều thời kỳ, tồn tại trong nhiều năm, để lại nhiều di chứng, đặc biệt ảnh hưởng đến thế hệ sau.

Dấu hiệu đầu tiên của bệnh là một nốt loét gọi là “săng” giang mai, xuất hiệu sau khi quan hệ tình dục 10 đến 90 ngày với một người mắc bệnh giang mai. “Săng” giống như một cái mụn hoặc một vết loét mờ, bờ của nốt loét nhẵn nhụi và có cảm giác chắc như sụn, xuất hiện ở vùng sinh dục, đôi khi ở miệng, môi, ở ngón tay hoặc ở hậu môn. Vết loét này mang đầy mầm bệnh, rất dễ lây truyền sang người khác. Vết loét thường không đau và nếu ở trong âm đạo thì bệnh nhân có thể không thấy nhưng vẫn gây nhiễm bệnh cho người khác khi quan hệ tình dục. Vết loét chỉ kéo dài vài ngày hoặc vài tuần sau đó tự mất đi nhưng vẫn tiếp tục lan ra toàn thân. Sau nhiều tuần hoặc nhiều tháng có thể xuất hiện triệu chứng toàn thân như đau bụng, sốt nhẹ hoặc loét ở miệng, sưng khớp hoặc có các triệu chứng dưới đây xuất hiện ở da:

- Rát hoặc mụn khắp cơ thể.
- Vết ban nổi hình tròn hoặc bầu dục.
- Rát ở gan bàn tay hoặc gan bàn chân.

Trong giai đoạn này bệnh rất dễ lây truyền chỉ bằng tiếp xúc đơn giản như hôn, sờ vì mầm bệnh có ở da. Tất cả những triệu chứng này sẽ tự mất đi và sau đó người bệnh có thể cho rằng bệnh đã đỡ, nhưng thực chất bệnh vẫn tiếp tục phát triển. Nếu không được điều trị thích hợp, giang mai có thể xâm lấn bất kỳ bộ phận nào của cơ thể, gây nên nhiều bệnh cảnh như bệnh tim, liệt cơ thể, rối loạn tâm thần và dẫn đến tử vong. Nguy hiểm hơn, phụ nữ mang thai mắc bệnh giang mai có thể truyền giang mai cho thai nhi. Giang mai có thể gây ra dị tật bẩm sinh, hoặc thai chết lưu hoặc đẻ non.

Để phòng tránh những biến chứng nguy hiểm như trên, khi phát hiện có một vết loét ở bộ phận sinh dục cần thiết phải thử máu xem có phải bị mắc bệnh giang mai không để điều trị sớm. Các thuốc kháng sinh như penixilin, doxicyclin, tetracyclin, erythromycin... hiện vẫn có tác dụng, liều lượng theo chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa da liễu.

Lậu và chlamydia

Là hai bệnh tương tự nhau nhưng chlamydia nặng hơn và lậu thường bắt đầu sớm hơn. Một người có thể cùng một lúc mắc lậu và chlamydia nên trong điều trị tốt nhất là điều trị cả hai. Bệnh lậu do cầu khuẩn gây nên. Bệnh nhân sau khi quan hệ tình dục với người bị bệnh có các triệu chứng đái rắt, đái buốt, đái ra mủ, mỗi khi đi tiểu rất đau, người bệnh mệt mỏi hoảng hốt. Ở nam giới mắc bệnh lậu, các dấu hiệu thường xuất hiện sau khi giao hợp từ 2 đến 5 ngày, nhưng cũng có nam giới mắc bệnh có thể không có dấu hiệu.

Ở nữ giới, các dấu hiệu mắc lậu và chlamydia có thể bắt đầu sau nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Thậm chí có khi lại không có bất kỳ dấu hiệu nào mà vẫn có thể truyền lậu và chlamydia cho một người khác khi quan hệ tình dục.

Những dấu hiệu nhận biết ở phụ nữ: Âm đạo hoặc hậu môn có nhiều dịch vàng hoặc xanh lá cây, đau hoặc buốt khi đi tiểu, đau bụng dưới, sốt, đau hoặc chảy máu trong khi giao hợp, hoặc không có một tý dấu hiệu nào.

Lậu và chlamydia đều là những bệnh nghiêm trọng nhưng dễ điều trị nếu được chữa sớm. Ngược lại nếu không điều trị sớm sẽ có thể gây nhiễm khuẩn nặng và dẫn đến biến chứng như viêm mào tinh hoàn, viêm tuyến tiền liệt... gây vô sinh ở nam; viêm buồng trứng, vòi trứng gây tắc và vô sinh ở nữ.

Điều cần chú ý là cần điều trị cả hai người (vợ, chồng hoặc bạn tình) càng sớm càng tốt. Khi biết bạn tình bị lậu hoặc chlamydia, hoặc nhận thấy ở người nam giới có chút dịch thải hoặc một giọt mủ ở dương vật, thì cả hai đều cần phải điều trị. Hiện nay có nhiều loại kháng sinh điều trị hiệu quả hai bệnh này, tuy nhiên cần được bác sĩ da liễu khám và chỉ định liều dùng thích hợp. Trong cả quá trình điều trị nên ngừng giao hợp hoặc sử dụng bao cao su mỗi lần giao hợp. Đặc biệt chú ý một số loại thuốc không dùng cho phụ nữ mang thai hoặc cho con bú.

BS Ngọc Anh, Sức khoẻ và Đời sống


Tình dục đồng giới không phải là một căn bệnh

Tình dục đồng giới không phải là một căn bệnh

Từ năm 1973, Hội Tâm thần học Mỹ đã không xếp tình dục đồng giới vào danh sách các bệnh về tình cảm và tinh thần. Năm 1975, Hội Tâm lý Mỹ cũng đã thông qua một nghị quyết ủng hộ chủ trương nói trên. Trái với suy nghĩ của nhiều người, tình dục đồng giới không được xếp vào danh sách các bệnh tinh thần hay rối loạn tình cảm.

Tình dục đồng giới có phải là hành vi đồi bại không? Câu hỏi này đã từng được nêu ra từ thế kỷ 19. Năm 1869, Bộ trưởng Tư pháp Phổ đã ra lệnh cho các "đại diện của giới y học Hoàng gia Phổ" xem xét một đạo luật trừng phạt những người tình dục đồng giới. Các nhà khoa học nổi danh thời đó đã không công nhận hành vi nói trên là một vấn đề y học và tuyên bố rằng chưa có đủ khả năng xem xét vấn đề này từ khía cạnh đạo đức. Như vậy, luật chỉ hoàn toàn dựa trên thái độ kỳ thị của cộng đồng. Phải đợi đến thế kỷ 20, nhờ những hiểu biết mới về sinh học, tình dục đồng giới mới được xem là một xu hướng tính dục của con người: Đó là sự hấp dẫn, thu hút về mặt tình cảm và thể chất với một cá thể cùng giới.

Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy nhân cách người có hành vi tình dục đồng giới không có gì khác mọi người, ngoại trừ xu hướng tính dục của họ. Những người này hoàn toàn khoẻ mạnh, họ có năng lực thể chất như nhiều người khác. Nhiều người có năng lực trí tuệ của nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ. Họ vẫn có những đam mê công việc, yêu quý người thân và cũng biết nuôi dạy con cái như những bậc cha mẹ tốt (nếu họ nhận con nuôi). Các nhà khoa học về sức khỏe tâm thần và tính dục người đều chia sẻ quan điểm coi hành vi tình dục đồng giới là một xu hướng tính dục có tính chất cố định, không phải là sự lựa chọn của cá nhân, được hình thành ngay từ nhỏ do sự tác động qua lại của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội, trước cả khi có trải nghiệm tình dục.

Nguyên nhân của hiện tượng tình dục đồng giới

Hiện có 2 giả thuyết đang được giới khoa học chấp nhận nhiều nhất:

1. Xu hướng tình dục đồng giới là sự lựa chọn của tuổi vị thanh niên, có thể thay đổi bất cứ lúc nào bằng cầu nguyện hoặc giải thích cho hiểu rõ. Hành vi tình dục đồng giới giống như hành vi nghiện ma tuý, đôi khi rất khó cai.

2. Xu hướng tình dục đồng giới là do có những thay đổi khó nhận biết ở các gene, ở tác dụng qua lại giữa các gene và bộ phận cảm thụ hoóc môn của trung tâm thần kinh ở não (nơi chi phối mọi hành vi, cảm xúc tình dục). Nó hình thành từ rất sớm, muộn nhất cũng vào tuổi đi học, nhiều khi còn hình thành từ trước khi đẻ, có lẽ vào lúc thụ thai, đương sự và cha mẹ hoàn toàn không thể kiểm soát được. Có rất nhiều bằng chứng ủng hộ giả thuyết này.

Thay đổi xu hướng tính dục

Xu hướng tình dục đồng giới tuy chỉ chiếm 5% số người đã trưởng thành (số liệu của Mỹ) nhưng điều này không có nghĩa rằng không giống đa số là không được chấp nhận. Tình dục đồng giới không có hại cho cộng đồng, chỉ liên quan tới một số đàn ông, đàn bà (thường rất hiền lành), không lây lan, không đe doạ sự tồn tại của giống loài.

Nhiều người đã thử thay đổi xu hướng tính dục, từ đồng giới chuyển thành khác giới, nhưng không thành công. Lịch sử đã nhắc đến nhiều phương pháp thô bạo nhằm huỷ diệt cảm xúc tình dục đồng giới, ví dụ như cắt bỏ vú và tử cung hoàn toàn lành lặn ở những người tình dục đồng giới nữ; gây choáng điện ở những người tình dục đồng giới nam khi cho họ xem hình ảnh người nam trần truồng; phẫu thuật não ở thùy trán hay thiến hoạn… Năm 1990, Hội Tâm lý Mỹ đã tuyên bố rằng các bằng chứng khoa học cho thấy việc thay đổi xu hướng tính dục không đem lại hiệu quả và có hại nhiều hơn có lợi.

Tóm lại, nhân loại luôn tiến lên trên con đường xây dựng cuộc sống văn minh, loại bỏ dần những điều lạc hậu, quyền sống ngày càng được tôn trọng. Nhóm người thiểu số có xu hướng tình dục đồng giới cũng có quyền được sống bằng con người của họ và không thể kết tội bản chất tự nhiên ấy.

BS Đào Xuân Dũng, SK&ĐS

LTS: Trên đây là những ý kiến xuất phát từ suy nghĩ và kết quả nghiên cứu của một cá nhân, rất mong được trao đổi thêm cho sáng tỏ.

Tăng kích thước dương vật?

Tăng kích thước dương vật: Tiền mất tật mang

Từ ngàn xưa người ta đã chế ra đủ thứ thuốc và các phương pháp tập luyện kiểu như đeo tạ, dùng bơm hút… để mong có thêm vài cm chiều dài "của quý". Dưới đây là bài viết của bác sĩ Nguyễn Thành Như, bệnh viện Bình dân, dành riêng cho VnExpress về vấn đề tế nhị này.

Thời gian gần đây, với sự đơn giản của quảng cáo trên Internet, không ngày nào người sử dụng mail lại không nhận được một vài cái spam quảng cáo một phương pháp tập luyện nào đó nghe có vẻ rất khoa học, hay một loại thuốc thoa mà hiệu quả làm dương vật to, dài thêm. Thông tin chắc như “đinh đóng cột”, theo kiểu “nếu không đúng cứ chặt đầu tôi đi”. Có quảng cáo còn cả gan bảo thuốc đã được Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho phép sử dụng.

Thuốc quảng cáo trên Internet hay ở đâu đó cũng chỉ là quảng cáo, uống vào tiền mất tật mang vì chưa có thuốc nào chứng minh được một cách khoa học là có hiệu quả. Chỉ duy nhất có một loại bệnh mà dùng thuốc sẽ giúp dương vật cũng như trọn bộ sinh dục phát triển là “hypogonadotropic hypodonadism”, tạm dịch: thiểu năng sinh dục do thiểu năng nội tiết hướng sinh dục. Bệnh rất hiếm gặp, dùng FSH và LH sẽ giúp cơ quan sinh dục to ra, lông phát triển và dài thêm vài phân. Tuy nhiên, người bị bệnh này cần phải được khám và theo dõi bởi bác sĩ chuyên khoa.

Các phương pháp dùng tay hay dụng cụ hút, kéo để kéo dương vật dài ra chỉ gây hại. Kiên trì kéo dài xương có thể giúp xương dài thêm, nhưng kiên trì kéo dài dương vật chỉ giúp dương vật bị… liệt luôn. Kích thước dương vật được quyết định chính bởi kích thước của hai thể hang, đó là hai ống tròn mà vỏ là bao sợi còn ruột là các xoang chứa máu. Dương vật cương được là nhờ máu bơm thật nhiều vào trong ruột hai thể hang làm bao sợi bên ngoài giãn ra, đến một giới hạn nào đó (do “trời’ qui định) thì bao sợi không giãn nữa, mà máu thì vẫn cứ bơm tới, nên toàn bộ thể hang trở nên căng cứng. Nếu dương vật đang căng cứng mà dùng tay bẻ mạnh một cái thì bao sợi bị rách, máu trào ra, dương vật xìu ngay lập tức (y học gọi là dương vật bị gãy). Nếu bẻ hay kéo không mạnh lắm thì chỉ làm bao sợi nứt. Từ chỗ nứt hoặc là hình thành sẹo làm mỗi khi cương dương vật bị đau và quẹo qua một bên; hoặc là bao sợi bị nứt nhiều chỗ làm cho bao chỗ dày chỗ mỏng không đều, nên máu bơm tới chỉ làm dương vật phình to ra mà không cương cứng được.

Về phẫu thuật, do đoạn gốc dương vật dính vào xương mu bằng dây chằng, nên để làm nó dài ra, bác sĩ có thể cắt rời dây chằng này đi, giúp dương vật nhìn dài thêm 2-3cm. Thực ra nó chẳng dài hơn đâu, phẫu thuật chỉ làm 2-3cm nằm bên trong được “dời” ra ngoài. Để làm nó to thêm (đường kính lớn hơn), bác sỹ phẫu thuật có thể hút mỡ từ chỗ khác (ví dụ từ mỡ bụng) rồi bơm vào dưới da dương vật. Một cách khác để làm dương vật to ra là ghép da, tức là lấy da ở chỗ khác đem ghép vào dưới da thân dương vật.

Trên thực tế, những bệnh nhân được thực hiện các phẫu thuật trên đều quay lại kiếm bác sĩ vì… chẳng được như ý. Mỡ bơm dưới da sẽ dần dần (một vài năm) gom lại, tạo thành những cục u như quả trứng cút. Ghép da làm dương vật méo mó kỳ dị vì thân nó to ra nhờ da ghép, nhưng đầu vẫn như cũ (vì đâu có ghép da lên qui đầu được), nhìn rất bất đối xứng, khó coi. Cắt rời dây treo dương vật giúp nhìn thấy nó dài ra nhưng khi cương nó lại bị “rớt”, chĩa xuống dưới chứ không chĩa lên. Có hai bác sỹ người Nam Tư còn đem sụn sườn nhét vô giữa qui đầu và hai thể hang để dương vật dài ra, nhưng chỉ một thời gian là sụn tự tan mất, mềm nhũn.

Nói tóm lại, trời cho sao hưởng vậy chứ đừng mất thời giờ so bì vô ích. Hạnh phúc gia đình cũng như bản lĩnh của đàn ông chẳng bao giờ nằm ở chỗ đó. Những gì nằm giữa hai lỗ tai mới là điều đáng lo “tu bổ”, không nên chăm chút những gì nằm giữa hai đùi.

Bác sĩ Nguyễn Thành Như

CẮT BAO QUY ÐẦU

CẮT BAO QUY ÐẦU

Tác giả : BS. NGUYỄN Ý ÐỨC (Texas - Hoa Kỳ)

Bao da quy đầu là một cấu trúc bọc bên ngoài cơ quan sinh dục nam và nữ. Ðây là nếp gấp da trên phần cuối dương vật và bao quanh âm vật. Mặt trong lớp da này có những tuyến tiết ra dung dịch chất nhờn mà khi tích tụ sẽ tạo ra một lớp bựa.

Thủ thuật circumcision để chỉ việc cắt bỏ lớp da này đi, khiến cho đầu dương vật hoặc âm vật lộ ra.

Tại một số quốc gia, có phong tục cắt da quy đầu cho trẻ em để thích hợp với một số tiêu chuẩn trong xã hội. Thay vì coi da quy đầu như một cấu trúc bình thường, các phong tục này lại coi đó như một điều nguy hiểm, không tốt nên cần cắt bỏ.

1. Những lý do để cắt bao quy đầu

a. Lý do tôn giáo: Trẻ sơ sinh theo Do Thái giáo sẽ được giải phẫu để cắt da quy đầu trong một lễ nghi cầu nguyện rất trang trọng. Ðây là một hành động được xem là sự thỏa hiệp giữa nam giới đó với Thượng đế.

b. Lý do vệ sinh: Cắt da để đầu cơ quan sinh dục được sạch sẽ cũng như tránh bị hẹp bao quy đầu (Phimosis), da sưng không lộn ngược lên được.

Có ý kiến cho rằng cắt da quy đầu có thể ngăn ngừa việc nhiễm trùng đường tiểu, làm giảm nguy cơ ung thư dương vật và ung thư tử cung (gây ra do chất cặn trắng đóng dưới da quy đầu).

c. Cha mẹ thường có thói quen yêu cầu bác sĩ cắt da quy đầu cho con vì mọi nam giới trong gia đình đều làm như vậy, để đứa bé không cảm thấy khác người nếu không giải phẫu.

2. Các quan điểm về cắt bao quy đầu

Giải phẫu này được thực hiện thường quy ở Mỹ từ năm 1940, nhưng ngày nay đã giảm đi vì quan niệm của y giới không thuận lợi đối với kết quả giải phẫu. Hơn nữa, giải phẫu nhiều khi gây đau đớn cho em bé, làm chảy máu, sưng nơi vết mổ cả mấy ngày.

Có người lại muốn giữ lại da quy đầu để che chở cho đầu dương vật khỏi bị cọ xát, và như vậy sẽ nhạy cảm hơn với kích thích.

Năm 1991, Hiệp hội các bác sĩ Nhi Hoa Kỳ đã đồng ý vấn đề thường quy cắt bao quy đầu ở trẻ sơ sinh là không cần thiết vì không đem lại lợi ích y khoa quan trọng nào. Họ để các bậc cha mẹ tùy ý quyết định cắt hay không cắt cho con.

Quan điểm của giới y khoa muốn giữ da quy đầu giải thích rằng: Việc cắt bỏ sẽ đưa đến một số vấn đề như đầu dương vật và âm thần mất sự bao che của một lớp tế bào nên dễ nhiễm trùng, miệng ống tiểu dễ bị chít hẹp .

Cắt da quy đầu cũng có nghĩa là cắt bỏ một số cơ thịt và dây thần kinh, vì vậy dương vật thường ở vị thế nằm rũ khi không cương, đồng thời cảm giác bị mất đi nên cũng giảm bớt khoái cảm trong quan hệ tình dục. Theo họ, chỉ nên cắt da quy đầu khi có vấn đề sức khỏe do nó gây ra, và khi người cắt tự nguyện.

Nhiều người còn cho rằng việc cắt bỏ da quy đầu đã dẫn tới sự thủ dâm, giao hợp qua đường hậu môn nhiều hơn.

Về phương diện thỏa mãn sinh lý, theo tạp chí British Journal of Urology số tháng 1, 1999, phụ nữ thích giao hợp với nam giới còn nguyên bao quy đầu hơn là đã cắt. Lý do nêu ra là da quy đầu đem lại cho họ nhiều khoái cảm hơn, nam giới chậm xuất tinh, động tác của người nam nhẹ nhàng, bớt cọ sát và do đó nữ giới tiết nhiều âm dịch hơn.

Benjamen Spock, một người luôn chủ trương cắt da quy đầu cũng đã thay đổi ý kiến. Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1989, ông cho biết việc cắt da quy đầu vì lý do vệ sinh cơ quan sinh dục cũng giống như cắt mí mắt (với hy vọng mắt sạch hơn).

Hiện nay hầu như chỉ có Mỹ là còn áp dụng việc cắt da quy đầu, và thường thực hiện ở thôn quê nhiều hơn thành thị.

3. Quyết định cắt bao quy đầu

Nếu các bậc cha mẹ vẫn muốn con mình thực hiện giải phẫu này, nên lưu ý mấy điều sau:

a. Yêu cầu em bé được cho thuốc giảm đau trước khi giải phẫu.

b. Thay băng nhiều lần trong ngày để tránh nhiễm trùng.

c. Vết mổ có thể rỉ máu vài ngày.

d. Sau giải phẫu, em bé có thể không tiểu tiện trong vòng từ 6-8 giờ.

e. Cắt da quy đầu là một giải phẫu đơn giản, có thể thực hiện ngay tại phòng mạch bác sĩ và vết thương sẽ lành sau vài tuần lễ.

Khi không giải phẫu, ta nên tư vấn bác sĩ về cách giữ gìn vệ sinh cơ quan sinh dục cho bé; không nên cố tình kéo để lộn ngược da quy đầu.

4. Cắt bao quy đầu ở người trưởng thành

Người trưởng thành đôi khi cũng cần giải phẫu cắt da quy đầu trong các trường hợp sau:

a. Nếu thường xuyên bị nhiễm trùng cơ quan tiểu tiện, nhất là người mắc bệnh tiểu đường, vì đường trong nước tiểu dính dưới da quy đầu sẽ là môi trường thuận lợi cho vi trùng sinh sản.

b. Khi da quy đầu quá co chặt gây khó khăn trong quan hệ tình dục.

c. Ngại bị ung thư cơ quan sinh dục.

d. Muốn giải phẫu vì lý do thẩm mỹ.

5. Cắt bao quy đầu ở nữ giới

Ðối với nữ giới, ở một vài nước châu Phi (nhất là Somalia) và một vài bộ lạc ở châu Á, người ta còn giữ phong tục cắt da quy đầu âm vật, tiểu âm thần, thu hẹp cửa mình ở phụ nữ (female circumcision).

Họ tin là tập tục này sẽ gìn giữ con người tinh khiết, trong sạch và là một "cái đai" bảo vệ sự trinh tiết trước khi lập gia đình. Ở Somalia, 95% các bé gái đều phải thực hiện tập tục này trước khi lên 5 tuổi.

Sự cắt bỏ bao quy đầu ở nữ giới sẽ gây đau đớn, băng huyết, nhiễm độc, thậm chí có thể dẫn đến tử vong (nếu thực hiện bởi người không chuyên môn, không có dụng cụ giải phẫu).

Tổ chức Y tế Thế giới đã can thiệp và khuyến cáo cần chấm dứt tình trạng này. Tại nhiều nước phương Tây, nghi thức này đã bị nghiêm cấm.

Những thức ăn có lợi cho tình yêu

Những thức ăn có lợi cho tình yêu

Lòng đỏ trứng giúp quý ông "mạnh" hơn.

Các protein có nhiều trong thịt, giúp tạo các axit amin trong thân tinh trùng. Khẩu phần ăn có 80 g thịt bò mộng sẽ giúp tạo ra 1 gam tinh trùng.

Mật độ tinh trùng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản, nếu có dưới 20 triệu tinh trùng trong 1 ml tinh dịch, bạn sẽ gặp khó khăn trong việc "tạo ra" người nối dõi. Rất may là con số này không phải bất biến mà chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan. Trong đó, thực phẩm đóng vai trò rất quan trọng. Một số thức ăn hỗ trợ khả năng sinh dục nhưng một số khác lại có hại.

Các thức ăn hỗ trợ tình yêu

- Trứng: Lòng đỏ trứng chứa một chất có trong tinh dịch, do đó giúp kích thích sinh dục.

- Tinh hoàn: Tinh hoàn động vật có nhiều chất argnin - thành phần chủ yếu của tinh trùng.

- : Có nhiều phosphor, protein, arginin, giúp kích thích sinh dục (cá ngựa có nhiều phosphor).

- Canxi: Một lần xuất tinh sẽ tiêu tốn 0,5 gam canxi. Để bù lại, có thể dùng sữa và sản phẩm từ sữa.

- Iốt: Có nhiều trong rong biển, củ hành, có tác dụng làm tăng lượng dịch tiết ở tiền liệt tuyến. Phụ nữ thiếu iốt thường bị lãnh cảm.

- Lưu huỳnh: Giúp tinh trùng bám vào trứng mạnh hơn, có nhiều trong hạt cải, nhung, nai, trứng các loại.

- Vitamin: Vitamin A (có nhiều trong rau, trái cây, mỡ) có tác dụng kích thích và bảo vệ tầng bì của bộ phận sinh dục; nếu thiếu chất này, tinh hoàn dễ bị loét, ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng. Vitamin C là một thành phần quan trong của tinh dịch; việc uống 4 ly nước cam vắt mỗi ngày làm tăng khả năng tình dục. Vitamin B12 làm tăng sản lượng tinh trùng.

- Hydrat carbon: Ít tác dụng trên dục tính nhưng rất cần thiết trong cân bằng dinh dưỡng, tạo ra sức khỏe cho nam giới.

Các thức ăn có hại

- Bột đậu nành: Chứa nitrofuran, một chất ngăn ngừa sinh sản, giảm tình dục.

- Dầu gan cá: Làm chậm phát triển dục tính, khiến tinh trùng bị co cụm lại nếu dùng quá nhiều.

- Rượu: Liều nhỏ rượu nhẹ làm khoan khoái trong tình yêu. Còn nếu dùng nhiều sẽ gây xáo trộn nội tiết, giảm lượng tinh trùng.

- Tinh dầu vỏ cam: Có chất hesperridin ngừa sinh sản.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)